Di tích lịch sử văn hóa
Xã Gia Thắng có nhiều di tích lịch sử
văn hóa như miếu Thổ, phủ An Phú Vinh, chùa Cảnh Phúc, đền Đức Thánh Nguyễn.
Các di tích, địa danh của Gia Thắng gắn liền sự khởi nghiệp của Đức Thánh
Nguyễn với những chiến công to lớn, vẻ vang của quê hương. Nhiều di tích, bia
đá (bến bia) của Gia Thắng nổi tiếng về nghệ thuật chạm khắc và giá trị lịch
sử. Nhân dân trong vùng lưu truyền câu ca dao:
Làng Hối lắm
cót, nhiều nia
Điềm Giang,
Điềm xá lắm bia để thờ.
Theo cuốn “lịch sử Đảng bộ xã Gia Thắng”: Xã Gia Thắng xưa là nơi sinh ra
Nguyễn Chí Thành (pháp danh Minh Không). Tương truyền, ngài sinh tại phường
Bều, thuộc Đàm thôn (nay là xóm 6, thôn Quốc Thanh). Từ nhỏ, Nguyễn Chí Thành
nổi tiếng thông minh, học giỏi, tu nghiệp đắc đạo trở thành nhà sư. Ông đi các
nơi truyền đạo, xây dựng nhiều chùa, đúc nhiều chuông to lớn. Là nhà sư, Nguyễn
Chí Thành còn là thầy thuốc tài giỏi. Năm 1136, vua Lý Thần Tông (húy Dương
Hoán), hai mươi tuổi bị bệnh nặng, lông mọc đầy người, trong cung không ai chữa
khỏi, triều đình triệu nhà sư Nguyễn Minh Không vào cung chữa khỏi bệnh cho
vua, được vua kính trọng phong là Quốc sư, lại miễn thuế dịch cho vài trăm hộ
vùng Đàm Gia. Theo truyền thuyết, khi Dương Hoán sinh cũng là nhà sư Từ Đạo
Hạnh đem thuốc niệm thần chú rồi giao cho học trò là Nguyễn Chí Thành, dặn rằng
20 năm sau nếu thấy vua bị bệnh lạ thì đến chữa ngay. Đạo Phật được thịnh hành
trở thành quốc đạo. Mùa thu tháng 8 năm 1141, Quốc sư Nguyễn Minh Không mất,
người đời sau tôn ông là Đức Thánh.
Nhân dân vẫn truyền nhau câu: “Đại Hữu sinh Vương, Điềm Dương sinh Thánh”.
để nói về vùng đất địa linh đã sinh ra vua Đinh Tiên Hoàng và Thiền sư Nguyễn
Minh Không, vị Quốc sư triều Lý, quê quán ở làng Điềm Giang.
Hiện nay, chùa Bái Đính (xã Gia Sinh) và nhiều đền, chùa ở Nam Định, Thái
Bình, Quảng Ninh có tượng thờ Đức Thánh. Để ghi nhớ ơn đức của ông, nhân dân
lập đền thờ ông tại xã Gia Thắng.
Đền còn thờ Thái sư Tô Hiến Thành, là vị đại thần có công bình Chiêm, phò
ấu chúa là Lý Cao Tôn (1175-1210). Tô Hiến Thành là người con cầu tự tại đền.
Bố đẻ ông là Tô Trung Công, làm quan lệnh doãn phủ Trường Yên đã cùng vợ về đây
cầu tự và sau sinh ra ông.
Tòa
Vọng Lâu đền Đức Thánh Nguyễn
Đền Đức Thánh Nguyễn được xây dựng trên nền
ngôi chùa cổ có tên là Viên Quang Tự do Nguyễn Minh Không lập vào năm 1121. Về
sau, người dân địa phương cho là nền nhà cũ của Đức Thánh Nguyễn nên đã dời
chùa sang phía tây, mà dành riêng nơi nhà cũ để thờ ông.
Đền quay hướng nam, nằm song song với
đường Tiến Yết, hướng về cố đô Hoa Lư nên được xem như là một di tích thuộc
“Hoa Lư tứ trấn”. Tổng thể công trình kiến trúc rất quy mô, được xây dựng
theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Đền gồm 4 toà làm theo kiểu tiền nhất, hậu
công. Đầu tiên là Vọng Lâu – tòa nhà 3 gian, nơi tương truyền là nhà cũ của
Thánh Nguyễn, với cây đèn đá dựng bên đầu hồi cao hơn một mét. Đây là biểu
tượng cây đèn của Nguyễn Minh
Không ngày xưa thắp sáng để ngồi thiền tịnh, ánh sáng chiếu rọi đến tầng mây
trên không, vì thế nên nhân dân quanh vùng tôn hiệu ông là Thiền sư Minh Không.
Đền chính xây dựng kiểu chữ công, gồm 3 tòa tiền bái, ống muống và chính tẩm,
là công trình rất giá trị về cả hai mặt kiến trúc và điêu khắc. Theo văn bia
còn lại ở dền thì công trình này được trùng tu lớn vào thế kỷ XVII, đến năm Bảo
Đại thứ 3 (1928) tu sửa tiếp, nhưng nhìn chung đường nét kiến trúc nghệ thuật
chạm khắc vẫn được bảo tồn như cũ, chỉ thay đổi chút ít.
Cấu
trúc gỗ tòa Tiền bái – đền Đức Thánh Nguyễn
Đầu hồi tòa Chính tẩm thực sự là những
tác phẩm điêu khắc có giá trị cao. Hồi phía tây như khoe tài nghệ điệu khắc tứ
linh với nhiều đề tài phong phú như long chầu, long ly vui đùa… thì hồi phía
đông, nổi bật lên một đề tài chạm khắc dân gian độc đáo. Trên ván bưng
suốt dọc xà hạ là cảnh người cỡi voi, đôi nam nữ tư tình, cảnh 4 cô gái tắm
tiên trên hồ sen, cảnh người lễ bề trên đang ngồi trên sập, có người hầu đứng
bên, phản ánh ước vọng bình dân, rất chân tình mộc mạc, mang đậm sắc thái dân
gian của nghệ thuật thế kỷ XVII.
Nghệ
thuật chạm khắc trên cốn và xà nách tòa Tiền bái
Mảng
chạm hoạt cảnh – hồi phía đông tòa Chính tẩm
Phía sau Chính tẩm là gác chuông có niên đại từ thời Mạc
được bảo tồn nghiêm ngặt, hai tầng tám mái bằng gỗ lim. Hệ thống công trình
kiến trúc phụ 2 phía đông - tây có tới 5 toà, với tổng số gian là 31 gian, gồm
2 dãy hành lang, 2 nhà trù, 1 gian thờ quan giám cũng được sắp xếp hài hòa,
kích cỡ vừa phải không ảnh hưởng đến hệ thống công trình chính.
Gác
chuông đền Đức Thánh Nguyễn
Đền Đức Thánh Nguyễn còn giữ
được nhiều hiện vật cổ có giá trị cây đèn đá, cột kinh, các văn bia đá cổ thời
Lê và Nguyễn, sóc đá, gạch trang trí hoa văn thời Lê, hai chân tảng bằng đá
thời Lý – Trần, các nhang án, khám thờ thời Lê, các sắc thời Lê và Nguyễn… Đây
là những tài sản văn hóa vô giá, góp phần nghiên cứu lịch sử, văn hóa, nghệ
thuật truyền thống của dân tộc.
Cột
kinh cổ - đền Đức Thánh Nguyễn
Sóc
đá thời Lê – đền Đức Thánh Nguyễn
Lễ
hội đền Đức Thánh Nguyễn diễn ra từ ngày 8 đến ngày 10 tháng 3 âm lịch. (6 năm
1 lần) Đây là dịp nhân dân địa phương
tri ân đức thánh Nguyễn Minh Không. Trong phần lễ chính có tục rước nước từ sông Hoàng Long về đền,
tế nam quan, tế nữ quan…Phần hội tổ chức các trò chơi dân gian như cờ người,
hát chèo.
Di tích đền Đức Thánh Nguyễn được Bộ
Văn hoá Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1989.
Nguồn: http://vhtt.ninhbinh.gov.vn/bai-viet/den-duc-thanh-nguyen.html